Viêm nhiễm đường sinh dục là gì? Các công bố khoa học về Viêm nhiễm đường sinh dục

Viêm nhiễm đường sinh dục (hay còn gọi là bệnh nhiễm trùng âm đạo hoặc viêm âm đạo) là một tình trạng viêm nhiễm xảy ra trong hệ thống sinh dục nữ. Đây là một t...

Viêm nhiễm đường sinh dục (hay còn gọi là bệnh nhiễm trùng âm đạo hoặc viêm âm đạo) là một tình trạng viêm nhiễm xảy ra trong hệ thống sinh dục nữ. Đây là một trong những vấn đề phổ biến nhất về sức khỏe phụ nữ. Viêm nhiễm đường sinh dục có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của hệ sinh dục nữ, bao gồm âm đạo, cổ tử cung, tử cung, và buồng trứng. Nguyên nhân chính của viêm nhiễm đường sinh dục thường là do nhiễm trùng bởi vi khuẩn, nấm hoặc vi khuẩn tố nữ (virus). Các triệu chứng thường gặp bao gồm đau, ngứa, rát và chảy dịch từ âm đạo, bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt, và một số trường hợp có thể dẫn đến vô sinh hoặc viêm nhiễm lan rộng trong cơ thể. Để chẩn đoán và điều trị viêm nhiễm đường sinh dục, cần tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa phụ khoa.
Viêm nhiễm đường sinh dục có thể được chia thành hai loại chính: viêm nhiễm âm đạo và viêm nhiễm cổ tử cung. Dưới đây là các thông tin chi tiết hơn về mỗi loại viêm nhiễm:

1. Viêm nhiễm âm đạo: Đây là tình trạng viêm nhiễm xảy ra trong âm đạo, là phần của hệ thống sinh dục nữ nằm giữa hậu quảng trường và cổ tử cung. Các nguyên nhân phổ biến gây ra viêm nhiễm âm đạo bao gồm vi khuẩn Gardnerella, Candida (nấm men) và trichomonas vaginalis (vi trùng). Một số yếu tố rủi ro bao gồm sử dụng tã vệ sinh không hợp lý, tình dục không an toàn, sử dụng quá nhiều chất tẩy rửa hoặc xà phòng trong vùng kín, dùng kháng sinh không cần thiết và yếu tố miền địa lý.

Các triệu chứng của viêm nhiễm âm đạo có thể bao gồm: ngứa, đau hoặc phỏng trong âm đạo, khí hư thối, sốc âm đạo và thay đổi màu và mùi của dịch âm đạo. Việc chẩn đoán được thực hiện thông qua việc kiểm tra âm đạo bằng cách thu thập mẫu dịch âm đạo để xác định nguyên nhân gây nhiễm trùng.

2. Viêm nhiễm cổ tử cung: Đây là tình trạng viêm nhiễm của cổ tử cung, là kết quả của sự xâm nhập của vi khuẩn hoặc vi khuẩn tố nữ vào khu vực này. Các nguyên nhân phổ biến gần đây của viêm nhiễm cổ tử cung bao gồm vi khuẩn tố nữ, vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae (gây bệnh lậu) và các vi khuẩn khác như chlamydia.

Các triệu chứng của viêm nhiễm cổ tử cung có thể bao gồm: đau trong khu vực bụng dưới hoặc lưng dưới, chảy dịch âm đạo màu vàng hoặc xanh, sốc trong quan hệ tình dục và kinh nguyệt không đều.

Để điều trị viêm nhiễm đường sinh dục, bác sĩ thường sẽ đưa ra đánh giá và chẩn đoán chính xác. Điều trị thường bao gồm việc sử dụng kháng sinh hoặc thuốc chống nấm để xử lý nhiễm trùng tương ứng. Ngoài ra, các biện pháp vệ sinh cá nhân sạch sẽ, sử dụng quần lót bông, không sử dụng tã vệ sinh công nghiệp và tình dục an toàn đều có thể giúp ngăn ngừa viêm nhiễm đường sinh dục.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm nhiễm đường sinh dục":

Đánh giá kiến thức về bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ từ 18 - 49 tuổi đến khám tại Khoa Phụ - Sản, Bệnh viện Bạch Mai
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 126 - 130 - 2017
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức về bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ từ 18 - 49 tuổi đến khám tại khoa Phụ - Sản, bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 260 phụ nữ có tuổi 18-49 đến khám phụ khoa từ 01/12/2015 đến 30/04/2016. Kết quả và kết luận: 97.7% phụ nữ đã từng nghe nói đến bệnh VNĐSDD, 90.4% biết dấu hiệu ngứa âm hộ; 4.2% không biết bất kỳ dấu hiệu nào, 91.5% biết nguyên nhân gây bệnh là vệ sinh kém; 6.5% không biết nguyên nhân gây bệnh nào, Tỷ lệ phụ nữ đạt mức độ kiến thức tốt là 28.8%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức độ kiến thức về bệnh VNĐSDD với các đặc điểm: nơi sống, học vấn, nghề nghiệp, kinh tế gia đình (p<0.05).
#Kiến thức #viêm nhiễm đường sinh dục dưới.
Nghiên cứu tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới và một số đặc điểm liên quan ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 2 - Trang 23-29 - 2020
Đặt vấn đề: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới là một trong những rối loạn thường gặp nhất khiến bệnh nhân tìm đến bác sỹ sản phụ khoa. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai được báo cáo rất cao. Mục tiêu:Mô tả tình hình viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối và tìm hiểu một số đặc điểm liên quan viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Sử dụng kỹ thuật nhuộm Gram và nuôi cấy định danh vi khuẩn dịch âm đạo. Kết quả: Nghiên cứu trên 103 phụ nữ mang thai từ 28 tuần trở lên có tiết dịch âm đạo bất thường. Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới là 46,6%. Các tác nhân gồm 32,0% nhiễm nấm Candida âm đạo; 13,6% nhiễm khuẩn (kỵ khí) âm đạo và 15,5% viêm hiếu khí âm đạo. Có 13 sản phụ (12,5%) nhiễm kết hợp các tác nhân. Tỷ lệ sản phụ nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới là 4,9%. Tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ sinh ra từ sản phụ có nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới cao hơn trẻ sinh ra từ sản phụ không nhiễm (p<0,05). Kết luận: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mang thai ba tháng cuối cao. Các tác nhân thường gặp theo thứ tự là nấm Candida, vi khuẩn hiếu khí và vi khuẩn kỵ khí. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình hình nhiễm Liên cầu nhóm B đường sinh dục dưới của sản phụ với tình hình nhiễm trùng sơ sinh sớm của trẻ.
#Đường sinh dục dưới #nấm Candida #nhiễm khuẩn âm đạo #viêm âm đạo hiếu khí #Liên cầu nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh sớm
Nghiên cứu hiệu quả lâm sàng của điều trị viêm nhiễm đường sinh dục dưới bằng viên đặt Vagikit
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 72-74 - 2014
Viêm nhiễm đường sinh dục dưới thường gặp trong lâm sàng phụ khoa, được gây ra bởi nhiều nguyên nhân, điều trị khỏi và bền vững còn gặp nhiều khó khăn. Vagikit là viên đặt âm đạo được cho là tác dụng với nhiều tác nhân gây viêm nhiễm dường sinh dục nhưng chưa được nghiên cứu ứng dụng ở Việt Nam. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của viên đặt âm đạo vagikit trong điều trị viêm nhiễm đường sinh dục dưới tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 110 phụ nữ có biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm chứng tỏ có viêm đường sinh dục dưới. Sau điều trị 1 chu kỳ kinh bệnh nhân được khám lại để đánh giá hiệu quả của thuốc. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ khỏi và thuyên giảm chung cho các nguyên nhân gây bệnh 86,36%; Tỷ lệ khỏi và thuyên giảm do nấm là 80%; Tỷ lệ khỏi và thuyên giảm do Gardnerella vaginalis 58,82%; Tỷ lệ khỏi và thuyên giảm do vi khuẩn khác là 90%; Tỷ lệ khỏi và thuyên giảm do nhiều nguyên nhân kết hợp là 92,31%; Tác dụng phụ: nóng rát âm đạo gặp 1,82%. Kết luận: Vagikit điều trị viêm âm đạo do các nguyên nhân có tỷ lệ khỏi và thuyên giảm cao, thuốc ít có tác dụng phụ.
#Vagikit #viêm nhiễm đường sinh dục dưới
NGHIÊN CỨU TIỀN SỬ VIÊM NHIỄM ĐƯỜNG SINH DỤC VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VÔ SINH THỨ PHÁT DO TẮC VÒI TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2017
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục và một số yếu tố liên quan đến vô sinh thứ phát do tắc vòi tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2017. Đối tượng, phương pháp:  Nghiên cứu hồi cứu trên 177 bệnh nhân được chẩn đoán vô sinh thứ phát do vòi tử cung được chỉ định phẫu thuật nội soi điều trị (bao gồm cả bệnh nhân được chẩn đoán tắc vòi tử cung hoặc các bệnh lý khác của vòi tử cung nhưng không gây tắc vòi tử cung), có bệnh án đầy đủ thông tin tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2017. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân tắc vòi tử cung có tiền sử viêm âm đạo là 60,8%; bệnh nhân tắc vòi tử cung ở nhóm không có tiền sử viêm âm đạo là 40,2% (p<0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có các tiền sử liên quan ở nhóm bị tắc vòi tử cung lần lượt là: nhiễm Chlamydia (bị tắc vòi tử cung 72,7%); đặt dụng cụ tử cung (bị tắc vòi tử cung 68,6%); phẫu thuật phụ khoa (bị tắc vòi tử cung 74,4%);  phá thai (bị tắc vòi tử cung 48,7%); dùng thuốc tránh thai (bị tắc vòi tử cung 40%). Kết luận: Tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục dưới, tiền sử nhiễm Chlamydia và các tiền sử: đặt dụng cụ tử cung, phẫu thuật phụ khoa vùng tiểu khung có liên quan đến vô sinh thứ phát do tắc vòi tử cung ở các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2017.
#Tiền sử liên quan #viêm nhiễm đường sinh dục #vô sinh thứ phát #tắc vòi tử cung
THỰC TRẠNG VIÊM NHIỄM ĐƯỜNG SINH DỤC DƯỚI CỦA PHỤ NỮ TRONG TUỔI SINH SẢN TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI TRÀ VINH
  Đặt vấn đề: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới là bệnh viêm nhiễm tại cơ quan sinh sinh dục phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Bệnh không những ảnh hưởng sức khỏe phụ nữ mà còn hưởng đến tinh thần, khả năng làm vợ, làm mẹ sau này. Mục tiêu nghiên cứu:  Xác định tỷ lệ và mô tả kiến thức đối tượng về viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại Bệnh viện Sản Nhi Trà Vinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 340 phụ nữ đến khám bệnh tại khoa khám Bệnh viện Sản Nhi Trà Vinh từ tháng 4-8/2020. Kết quả: Tỷ lệ mắc viêm nhiễm đường sinh dục dưới là 12,1%, trong đó phổ biến nhất là viêm âm đạo đơn thuần 46,3%. Triệu chứng phổ biến nhất của viêm nhiễm đường sinh dục dưới là sốt với tỷ lệ 100%. Kiến thức về bệnh đạt tỷ lệ từ 7,4% đến 39,7%, trong đó nhận biết nguyên nhân mắc bệnh do vệ sinh bộ phận sinh dục kém chiếm 34,4%, kiến thức về phòng ngừa bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là vệ sinh bộ phận sinh dục hàng ngày đạt 39,4%. Kết luận: Tỷ lệ mắc bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới và tỷ lệ kiến thức của đối tượng nghiên cứu thấp hơn so với các nghiên cứu gần đây. Nên cung cấp thêm kiến thức và cách phòng ngừa bệnh cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bởi các chuyên gia sản khoa.    
#Viêm nhiễm đường sinh dục dưới #phụ nữ #độ tuổi sinh sản
Thực trạng kiến thức và thực hành phòng chống bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới của phụ nữ từ 18-49 tuổi tại thành phố Nam Định
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức và thực hành phòng chống bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới của phụ nữ. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ 1-12/2018. 822 phụ nữ từ 18- 49 tuổi sử dụng dịch vụ tại trạm y tế được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn về các nội dung kiến thức và thực hành dự phòng viêm nhiễm đường sinh dục dưới. Công cụ sử dụng được xây dựng dựa vào các y văn hiện có và một số nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ đối tượng nhận biết được các dấu hiệu của bệnh đạt từ 38,5%-86,6%; nhận biết được nguyên nhân gây bệnh đạt từ 48,4%-87,8%; nhận biết được tác nhân gây bệnh từ 38,9%-85,4%; nhận biết được các hậu quả của bệnh từ 41,5%-85,5% và nhận biết được các biện pháp dự phòng bệnh từ 72,5%-88,3%. Có tới 94,5% đối tượng sử dụng băng hợp vệ sinh khi hành kinh; 94,3% thay băng vệ sinh ≥ 3 lần/ngày khi hành kinh; 90% rửa bộ phận sinh dục ≥ 3 lần/ngày khi hành kinh; 73,4% đối tượng rửa bộ phận sinh dục đúng cách và 42% rửa bộ phận sinh dục ≥ 3 lần/ngày. Kết luận: Đối tượng nghiên cứu có kiến thức về bệnh và thực hành phòng chống bệnh là tương đối tốt. Mặc dù vậy vẫn còn một một số phụ nữ chưa nhận biết được dấu hiệu, nguyên nhân, tác nhân, hậu quả và biện pháp dự phòng bệnh cũng như có hành vi chưa phù hợp khi bị bệnh.
#kiến thức #viêm nhiễm đường sinh dục #phụ nữ
22. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN VIÊM NHIỄM ĐƯỜNG SINH DỤC DƯỚI Ở PHỤ NỮ TỪ 15 ĐẾN 49 TUỔI TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI TỈNH TRÀ VINH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số 4 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Viêm nhiễm đường sinh dục dưới phổ biến ở phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi gây nhiều ảnhhưởng đến sức khỏe sinh sản và toàn thân. Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm xác định một số yếu tố liên quan đến viêm nhiễm đường sinh dục dướiở phụ nữ từ 15 đến 49 tuổi tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Trà Vinh. Phương pháp nghiên cứu: Khảo sát cắt ngang trên 340 phụ nữ từ 15 đến 40 tuổi tại phòng khámcủa bệnh viện trong khoảng thời gian tháng 4 - 8 năm 2020. Kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp đối tượngnghiên cứu bằng bộ câu hỏi được cấu trúc và quan sát hồ sơ người bệnh ngoại trú. Kết quả: Qua phân tích hồi qui logistic đa biến cho thấy phụ nữ có đặt vòng tránh thai liên quan đếntỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới cao hơn với OR = 36,00 (95% KTC: 1,57 - 826,12). Kết luận: Biện pháp tránh thai bằng dụng cụ tử cung là yếu tố liên quan độc lập đến viêm nhiễmđường dục dưới ở phụ nữ trong nghiên cứu. Mặc dù, vẫn chưa có đủ bằng chứng mạnh về mối quanhệ nhân quả này, nhân viên y tế nên tư vấn sức khỏe phòng bệnh liên quan đến biện pháp tránh thaivà thực hành vệ sinh phụ khoa ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản.
#Viêm đường sinh dục #phụ nữ #yếu tố liên quan #dụng cụ tránh thai
Tình hình viêm nhiễm đường sinh dục thấp ở phụ nữ mãn kinh đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 2 - Trang 56-61 - 2016
Mục tiêu: Nghiên cứu tình hình viêm đường sinh dục thấp ở phụ nữ mãn kinh. Đánh giá một số yếu tố liên quan đến viêm sinh dục thấp ở phụ nữ mãn kinh. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Phụ nữ viêm nhiễm sinh dục thấp có thời gian mãn kinh dưới 5 năm chiếm tỉ lệ cao nhất 49,4%. 8,2 % trường hợp có thói quen phơi quần áo nơi kín, 48,2% không có thói quen lau rửa ÂH - ÂĐ sau tiểu. Tỉ lệ đối tượng mắc bệnh còn quan hệ tình dục chiếm 49,4%. Khí hư ở âm đạo 44,7%, khô ÂH- ÂĐ 34,1%, ngứa ÂH- ÂĐ 28,2%, nóng, rát ÂH- ÂĐ 18,8%. Âm đạo khô, niêm mạc mỏng 67,1%, âm đạo đỏ, phù nề 28,2%, âm hộ đỏ, phù nề 5,9%. Có 65,9% cổ tử cung trắng nhạt, 32,9% cổ tử cung teo nhỏ. Viêm không đặc hiệu tỉ lệ cao nhất 76,5%,viêm đặc hiệu 15,3%, trong đó, viêm do nấm 8,2%, viêm do G.V 7,1%, viêm teo 8,2%. Kết luận: Nhóm tuổi, thời gian mãn kinh liên quan với các loại viêm nhiễm đường sinh dục thấp (p<0,05). Mối liên quan giữa thói quen lau rửa ÂH - ÂĐ sau tiểu, thói quen rửa ÂH - ÂĐ bằng dung dịch sát khuẩn, tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục thấp, quan hệ tình dục với các loại viêm nhiễm sinh dục thấp không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Association between recurrent ectopic pregnancy and history of genital infections and other factors at Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital in 2019
Mục tiêu: Nhận xét tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục và một số yếu tố liên quan đến chửa ngoài tử cung tái phát tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2019. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 178 bệnh án được chẩn đoán chửa ngoài tử cung ở vòi tử cung từ lần hai trở lên, được điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ ngày 01/01/2019 đến ngày 31/12/2019. Kết quả: Tỷ lệ chửa ngoài tử cung tái phát là 6,87%. Tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục dưới (44,4%), viêm tiểu khung,viêm vòi tử cung (3,4%) tiền sử phá thai (57,9%), tiền sử đặt dụng cụ tử cung (13,5%), dùng thuốc tránh thai (11,8%) và tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung (34,8%). Kết luận: Tiền sử viêm nhiễm đường sinh dục, tiền sử phá thai, tiền sử sử dụng dụng cụ tử cung, thuốc tránh thai và tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung là các tiền sử thường gặp ở chửa ngoài tử cung tái phát trên các bệnh nhân được điều trị chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2019
#Chửa ngoài tử cung tái phát #viêm nhiễm đường sinh dục #phá thai #sử dụng dụng cụ tử cung
Thực trạng viêm nhiễm đường sinh dục dưới và tìm hiểu yếu tố liên quan đến thói quen vệ sinh của phụ nữ tại 13 xã – Huế và Quảng Trị năm 2013
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 28-31 - 2014
Mục tiêu: Mô tả thực trạng viêm đường sinh dục dưới của phụ nữ tại 13 xã ở Huế và Quảng Trị và đánh giá hiệu quả hỗ trợ điều trị của DDVSPN Dạ Hương tại 2 xã Quảng Thành và Quảng Ngạn (Huế). Phương pháp nghiên cứu: Điều tra mô tả cắt ngang và can thiệp có so sánh. Kết quả: MT 1. Tỷ lệ VĐSDD tại 13 xã là 63,9%. Trong số VĐSDD viêm âm đạo chiếm 73,7%, viêm CTC là 24,1%. Tỷ lệ viêm do vi khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất 77,8%, viêm do nấm là 14%. Thói quen vệ sinh (rửa sâu vào âm đạo, vệ sinh trước/sau khi quan hệ tình dục, mặc đồ lót chật) liên quan đến VĐSDD (p< 0,05). MT2. Sau hỗ trợ điều trị với Dạ Hương viêm âm đạo giảm từ 64,6% xuống 24%, viêm do nấm giảm từ 17% xuống 6,8% Tỷ lệ đối tượng hài lòng khi sử dụng Dạ Hương đạt 99%, tỷ lệ thầy thuốc nhận xét sản phẩm ở mức độ tốt vừa chiếm 76,5%. Từ khóa: Viêm đường sinh dục dưới, Thói quen vệ sinh, Dung dịch vệ sinh phụ nữ.
Tổng số: 10   
  • 1